Trung tâm Khoa học công nghệ và Truyền thông Nghệ AnTrung tâm Khoa học công nghệ và Truyền thông Nghệ An
Trang thông tin điện tử
Trung tâm Khoa học công nghệ và Truyền thông Nghệ An
Ứng dụng công nghệ số trong quản lý, bảo vệ rừng
Thứ hai - 08/12/2025 10:4970
Sau khi Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành, lĩnh vực lâm nghiệp xác định chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ là giải pháp “then chốt” để nâng cao chất lượng công tác quản lý, giám sát và bảo vệ rừng trong bối cảnh mới.
Cán bộ Kiểm lâm tỉnh Sơn La ứng dụng các thiết bị công nghệ, phần mềm trong quản lý, giám sát và bảo vệ rừng. (Ảnh: NGỌC TUẤN).
Để nghị quyết đi vào cuộc sống, ngành đã đẩy mạnh ứng dụng các phần mềm, thiết bị công nghệ, nhất là công nghệ viễn thám vào hoạt động này và mang lại hiệu quả thiết thực.
Hiệu quả từ các giải pháp công nghệ số
Tổng diện tích rừng toàn quốc hiện nay là hơn 14 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên chiếm hơn 10 triệu ha và diện tích còn lại là rừng trồng. Sau khi sáp nhập các địa phương, cả nước hiện 34/34 tỉnh, thành phố đều có rừng. Với diện tích rừng lớn, lực lượng mỏng cho nên việc ứng dụng các giải pháp công nghệ vào hoạt động quản lý, bảo vệ rừng là ưu tiên hàng đầu của lĩnh vực lâm nghiệp.
Xác định tầm quan trọng của việc áp dụng công nghệ số, từ năm 2000, ngành lâm nghiệp đã chủ động nghiên cứu, ứng dụng các loại ảnh viễn thám có độ phân giải từ thấp đến cao của các vệ tinh như: NOAA, MODIS, LANDSAT, SENTINEL, SPOT5, VNREDSAT-1… đã góp phần nâng cao hiệu quả, minh bạch hóa các hoạt động điều tra, kiểm kê rừng. Cụ thể, thực hiện công tác kiểm kê rừng toàn quốc, từ năm 2013 đến 2016, ngành đã sử dụng hơn 720 cảnh ảnh viễn thám độ phân giải cao. Nhờ đó, ngành đã lập được bản đồ hiện trạng rừng tỷ lệ 1/10.000, xác lập dữ liệu 7,1 triệu lô rừng với đầy đủ thông tin về trạng thái, trữ lượng và chủ rừng. Hiện nay, các cảnh ảnh viễn thám SPOT6/7 đang tiếp tục được ứng dụng để kiểm kê tại các tỉnh Tây Nguyên và điều tra rừng tại các tỉnh còn lại. Đây là bước đột phá mang tính “cách mạng số” của ngành, góp phần thay đổi hoàn toàn phương thức điều tra, kiểm kê truyền thống.
Năm 2020, cũng là năm đánh dấu bước ngoặt của công tác chuyển đổi số của ngành. Bởi thời điểm này, ngành lâm nghiệp đã thực hiện thí điểm thành công ứng dụng ảnh các vệ tinh SENTINEL, LANDSAT giúp phát hiện sớm các biến động rừng. Trước đó, ngành cũng sử dụng các ảnh vệ tinh NOAA, TERRA,… để phát hiện sớm các điểm nóng, khu vực có nguy cơ xảy ra cháy rừng cao. Cùng với công nghệ viễn thám, việc ứng dụng các phần mềm, thiết bị kỹ thuật đã góp phần hỗ trợ hiệu quả công tác kiểm kê, phát hiện cháy rừng và quản lý chủ rừng. Tại những địa phương có khu vực địa hình hiểm trở, khó tiếp cận, các công nghệ LIDAR, GPS,… đã góp phần hỗ trợ lực lượng kiểm lâm cập nhật chính xác hiện trạng, lập bản đồ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng các giải pháp công nghệ còn giúp lực lượng kiểm lâm sớm phát hiện và xử lý các vụ vi phạm Luật Lâm nghiệp. Cụ thể, tại tỉnh Hà Giang cũ (nay là Tuyên Quang), nhờ ứng dụng các phần mềm FRMS, QGIS và MAPINFO trong năm 2024, lực lượng kiểm lâm đã phát hiện bốn vụ vi phạm về lâm nghiệp, giảm tám vụ so với năm 2023, với tổng số tiền xử phạt 65 triệu đồng. Tại tỉnh Lào Cai, trong sáu tháng đầu năm 2024, nhờ ứng dụng công nghệ GIS và ảnh viễn thám đã phát hiện và xử lý 86 vụ vi phạm liên quan đến rừng…
Theo ông Nguyễn Hữu Thiện, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), việc triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã mang lại động lực mạnh mẽ, đặt nền móng cho quá trình chuyển đổi số sâu rộng trong toàn lĩnh vực lâm nghiệp; đồng thời, tác động tích cực, toàn diện đến hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Trong đó, phương thức quản lý, bảo vệ rừng đã có sự chuyển dịch rõ rệt từ thủ công, truyền thống sang hiện đại. Việc ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI) cũng giúp các cán bộ của ngành nâng cao khả năng giám sát, phân tích dữ liệu về rừng và đưa ra các quyết định một cách kịp thời, chính xác.
Việc chuẩn hóa, liên thông cơ sở dữ liệu với các ngành, lĩnh vực khác giúp tăng cường tính minh bạch, hiệu quả trong phối hợp quản lý nhà nước. Năng lực tổ chức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đội ngũ cán bộ từng bước được nâng cao, từ đó hình thành tư duy số, phương pháp làm việc số, phù hợp bối cảnh chuyển đổi số. Đặc biệt, hành lang chính sách được thiết lập đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu, đối tác trong và ngoài nước tham gia đầu tư, chuyển giao công nghệ, góp phần thúc đẩy phát triển ngành lâm nghiệp bền vững, hiện đại và thích ứng biến đổi khí hậu.
Những khó khăn, thách thức
Cùng với những thuận lợi, hiệu quả mà quá trình chuyển đổi số mang lại thì ngành lâm nghiệp và kiểm lâm cũng gặp phải một số khó khăn như: Trang thiết bị công nghệ phục vụ giám sát rừng GPS, máy bay không người lái (DRONE), thiết bị LIDAR,… chưa được đầu tư đồng bộ, đầy đủ. Thời tiết, khí hậu nhiều nơi có rừng thường khắc nghiệt gây ảnh hưởng đến độ bền của các thiết bị, máy móc. Nguồn ảnh viễn thám chất lượng cao từ các vệ tinh chưa được cung cấp rộng rãi gây khó khăn cho việc phân tích, đánh giá hiện trạng rừng.
Kinh phí dành cho ứng dụng công nghệ số, nhất là công nghệ viễn thám chưa được bố trí đầy đủ và ổn định. Việc đầu tư cho phần mềm chuyên dụng, duy trì cơ sở dữ liệu, cũng như công tác đào tạo, tập huấn cho lực lượng kiểm lâm còn thiếu đồng bộ. Bên cạnh đó, việc phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm và phối hợp giữa cấp tỉnh và cấp cơ sở sau ngày 1/7/2025 khi triển khai các hệ thống phần mềm, thu thập và sử dụng dữ liệu lâm nghiệp cần được bảo đảm thống nhất và hiệu quả.
Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc và đồng thời, tiếp tục tăng cường ứng ứng dụng các giải pháp công nghệ số trong quản lý và bảo vệ rừng. Ông Nguyễn Hữu Thiện, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho rằng: Trên cơ sở định hướng Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong thời gian tới, Cục đã tham mưu lãnh đạo Bộ tập trung nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin và trang thiết bị phục vụ công tác chuyển đổi số.
Trong đó, ưu tiên bố trí hệ thống máy chủ, đường truyền và thiết bị đầu cuối trên phạm vi toàn quốc tại các đơn vị quản lý rừng. Song song với việc đầu tư mới, Cục tiếp tục triển khai các nền tảng ứng dụng GIS, ảnh vệ tinh, DRONE, trí tuệ nhân tạo (AI)… trong điều tra, theo dõi rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng và thực hiện các cam kết quốc tế. Phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số của ngành thông qua các chương trình đào tạo, tập huấn kỹ năng công nghệ số...